Mới, đây Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) đã có tờ trình gửi Chính phủ về dự thảo Nghị quyết 66 của Chính phủ về ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tháo gỡ khó khăn trong triển khai Luật Địa chất và khoáng sản (ĐC&KS).
Theo Bộ NN&MT, mặc dù, Luật ĐC&KS được thông qua hồi tháng 11/2024, đã giải quyết cơ bản những vướng mắc, bất cập của Luật Khoáng sản năm 2010, tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc chưa được giải quyết triệt để.
Đơn cử, Luật chưa có đầy đủ các cơ chế đặc thù để giải quyết triệt để tình trạng khó khăn, khan hiếm về khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, vật liệu san lấp phục vụ xây dựng các dự án, công trình quan trọng quốc gia...

Dự thảo Nghị quyết được xây dựng nhằm giải quyết tình trạng khan hiếm khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường hiện nay.
Thời gian qua trên địa bàn cả nước triển khai hàng loạt các dự án, công trình quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm với nhu cầu sử dụng vật liệu xây dựng rất lớn.
Nhiều thời điểm, nguồn cung vật liệu không đáp ứng dẫn đến giá vật liệu xây dựng tăng cao, thời gian cung cấp chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công và làm tăng tổng mức đầu tư xây dựng công trình.
Bên cạnh đó, quy định về tiêu chí khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới; cơ chế thăm dò xuống sâu và mở rộng đối với các mỏ khoáng sản đang hoạt động hợp pháp chưa thông thoáng, thuận lợi.
Để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trên, dự thảo Nghị quyết được xây dựng với nội dung cho phép thực hiện việc cấp giấy phép thăm dò xuống sâu và mở rộng quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 4 của Luật ĐCKS không phải căn cứ vào quy hoạch khoáng sản hoặc phương án quản lý về địa chất, khoáng sản.
Danh mục khoáng sản nhóm III là khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường như: Cát xây dựng hoặc san lấp,cát lòng sông, lòng hồ và khu vực biển (trừ cát trắng silic) không có hoặc có các khoáng vật cassiterit, wolframit, monazit, ziricon, ilmenit, vàng đi kèm nhưng không đạt chỉ tiêu tính trữ lượng theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Đất sét làm gạch, ngói theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam và không nằm trong danh mục khoáng sản thuộc quy hoạch khoáng sản nhóm I hoặc quy hoạch khoáng sản nhóm
Danh mục khoáng sản nhóm IV là khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường chỉ phù hợp với mục đích làm vật liệu san lấp, đắp nền móng công trình, xây dựng công trình thủy lợi, phòng, chống thiên tai, gồm: Đất sét, đất đồi, đất có tên gọi khác; Đất lẫn đá, cát, cuội hoặc sỏi; Cát các loại (trừ cát, sỏi lòng sông, lòng hồ và khu vực biển; cát trắng silic).
Nghị định bổ sung các trường hợp được áp dụng theo nguyên tắc cấp giấy phép khai thác khoáng sản nhóm IV bao gồm: Các công trình, dự án quan trọng quốc gia; công trình xây dựng khẩn cấp, nhiệm vụ cấp bách theo quy định của pháp luật về xây dựng; dự án đầu tư công theo quy định của pháp luật về đầu tư công…
Cho phép điều chỉnh giấy phép khai thác khoáng sản để nâng công suất khai thác khoáng sản nhóm III, nhóm IV đối với các mỏ khoáng sản đã có giấy phép khai thác khoáng sản còn hiệu lực để phục vụ cho các công trình, dự án quan trọng quốc gia; công trình xây dựng khẩn cấp, nhiệm vụ cấp bách theo quy định của pháp luật về xây dựng; dự án đầu tư công theo quy định của pháp luật về đầu tư công...
Cho phép không phải thực hiện thủ tục về giấy phép thăm dò khoáng sản, công nhận kết quả thăm dò khoáng sản, giấy phép khai thác khoáng sản đối với khoáng sản nhóm III, nhóm IV, cấp giấy xác nhận đăng ký thu hồi khoáng sản khi ứng phó với tình huống khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, an ninh, quốc phòng.
Cho phép các trường hợp giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường đã cấp trước ngày Luật ĐC&KS có hiệu lực phù hợp với quy hoạch khoáng sản được phép tiếp tục thực hiện để cung cấp cho các công trình, dự án các công trình, dự án quan trọng quốc gia; công trình xây dựng khẩn cấp, nhiệm vụ cấp bách theo quy định của pháp luật về xây dựng; dự án đầu tư thực hiện theo phương thức đối tác công tư (PPP)…
Không phải căn cứ vào kế hoạch sử dụng đất hằng năm, không phải thực hiện thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất; không phải thực hiện thủ tục thẩm định và phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường, đăng ký môi trường; không phải căn cứ vào phương án quản lý về địa chất, khoáng sản quy định tại khoản 2 Điều 12 của Luật Địa chất và khoáng sản…